Ý NGHĨA AN CƯ KIẾT HẠ
Phật Pháp Ứng Dụng
Gia đình ĐH Hồ Văn Cơ - Nguyễn Luyện phát tâm cúng dường |
Hàng năm, người Phật tử tại gia, theo sự hướng dẫn của quý thầy,
đều phát tâm cúng dường tứ sự (chỗ nằm, thuốc men, ăn uống và y phục) cho chư
Tăng ba tháng an cư.
Với hành động đó, mọi người chỉ được biết rằng bố thí cúng
dường trong thời điểm này thì đem lại lợi ích lớn cho họ.
Vì vậy, người cư sĩ Phật tử phát tâm cúng dường chỉ biết
mong cầu phước báu vô hình nào đó. Được phước báu là điều đương nhiên! Còn ý
nghĩa và mục đích lớn lao của việc An Cư Kiết Hạ thì ít có người cư sĩ Phật tử
nào hiểu một cách chính xác, hoặc nghĩ đó là việc của chư Tăng nên hàng Phật tử
tại gia không cần thiết tìm hiểu để làm gì. Do đó, chúng tôi cần chia sẻ một
vài ý nghĩa căn bản của truyền thống An Cư Kiết Hạ trong Phật giáo, để cho hàng
Phật tử tại gia tham khảo, nhằm biết được tầm quan trọng của việc an cư.
Căn cứ vào Tỳ Ni Luật Tạng, hàng năm chư Tăng điều phải có ba
tháng tập trung một nơi, ở yên tu học, gọi là cấm túc an cư: dừng bước du hóa
(cấm túc), ở yên một nơi hay một trú xứ tập trung nào đó gọi là an cư (ở yên).
Thế nên, chư Tăng cấm túc an cư mùa Hạ thì gọi là An Cư Kiết Hạ; cấm túc an cư
mùa Đông thì gọi là Kiết Đông hay An Cư Kiết Đông. Tương tự, Kiết Thu Đông
(giữa hai mùa), Kiết Xuân (cấm túc an cư vào mùa Xuân)… Và như thế, chư Tăng
nói chung hay người xuất gia đã thọ Tỳ kheo giới nói riêng , đều lấy việc cấm
túc an cư làm quan trọng, vì kết thúc một thời điểm ba tháng tu học như thế, vị
Tỳ kheo đó mới được thêm một tuổi đạo. Theo lệ thường, người thế tục lấy Tết
tính tuổi đời, còn người tu lấy ngày Tự Tứ sau ba tháng an cư làm tuổi đạo.
Luật Tạng đã chế định, người nào xuất gia và thọ giới Tỳ kheo trước thì người
đó lớn, bất kẻ tuổi đời. Cho nên thứ bậc lớn nhỏ trong nhà Phật không dựa vào
tuổi đời mà phải dựa vào tuổi đạo, chúng ta hay gọi là tuổi Hạ - ai nhiều
năm Hạ hơn thì người đó lớn hơn; cũng có thể nói rằng, ai là người thọ giới Tỳ
kheo trước thì người đó lớn; người thọ giới Tỳ kheo sau, cho dù tuổi đời lớn
hơn bao nhiêu cũng là người có thứ bậc nhỏ. Vì vậy, khi chưa hiểu luật đạo,
người đời thường ngạc nhiên khi thấy một vị thầy lớn tuổi mà phải ngồi phía
dưới, đứng phía sau…. những thầy Tỳ kheo trẻ, thậm chí tuổi đời của vị thầy trẻ
đó chỉ đáng bằng con cháu của những vị thầy cao tuổi. Chính vì những quy định
đầy sáng suốt và trí tuệ của Phật nên đã gìn giữ được thể thống uy nghiêm, trật
tự và bình đẳng trong sinh hoạt tăng đoàn. Đó là sự tinh khiết đáng quý trong
đời sống giải thoát của người xuất gia học Phật, nhằm phát huy đạo lực tu tập
và sự thanh tịnh trong tăng đoàn.
Dựa vào điều kiện nào để đức Phật hoặc tăng đoàn chọn làm
thời điểm an cư? Thật ra, vào thời đức Phật còn tại thế, Ngài đã chọn mùa an cư
là mùa mưa, không hẳn là mùa Hạ như lịch của Việt Nam hiện giờ. Theo lịch của
Ấn Độ thì một năm được chia thành ba mùa: mùa nắng, mùa mưa và mùa lạnh. Mùa
nắng kể từ giữa tháng 2 đến tháng 6. Mùa mưa kể từ nửa cuối tháng 6 đến khoảng
nửa đầu tháng 10. Mùa lạnh là những tháng còn lại. Truyền thống Phật giáo
Nguyên thủy y cứ theo lịch này nên bắt đầu Vũ Kỳ An Cư (Vassavāsa) từ ngày 16
tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina). Nếu an
cư được bắt đầu vào ngày 16 tháng 6 thì gọi là Tiền an cư (Purimikavassà). Còn
nếu như có duyên sự không thực hiện Tiền An Cư được mà phải dời lại một tháng
sau, tức bắt đầu từ ngày 16 tháng 7 và kết thúc vào ngày 16 tháng 10 thì gọi là
Hậu An Cư (Pacchimikàvassà). Truyền thống Phật giáo Bắc truyền, thông thường
thì bắt đầu kỳ an cư vào sau lễ Phật đản, tức bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 và kết
thúc an cư vào ngày 16 tháng 7. Phật giáo Bắc tông dùng cụm từ An Cư Mùa Hạ
(Kiết Hạ An Cư) thay cho cụm từ An Cư Mùa Mưa (Vũ Kỳ An Cư). Sự sai khác về
thời gian trong hai truyền thống này là do có sự sai khác về điều kiện thời
tiết khí hậu của từng quốc độ. Một số nhà phiên dịch Trung Hoa khi dịch kinh
cũng đã dịch Kiết Hạ An Cư thay cho Vũ Kỳ An Cư.
Như vậy, ở Ấn Độ, vào mùa mưa, côn trùng sinh sôi nẩy nở nhiều,
chư Tăng đi ra ngoài sẽ giẫm đạp chết côn trùng, vừa tổn lòng từ bi vừa mang
nghiệp sát. Để trưởng dưỡng lòng từ, và tránh sự cười chê của người thế tục,
đức Phật không cho chư Tăng đi du hóa vào mùa mưa và trở thành truyền thống an
cư đến ngày nay; ngoài việc chư tăng tập trung tu trì nó còn là nền tảng căn
bản của người tu tập giải thoát, hoàn thành một sứ mạng thiêng liêng cao cả, là
tự độ và độ tha, là hạnh nguyện của mười phương ba đời chư Phật (tự giác, giác
tha, giác hạnh viên mãn). Bởi vì, trong những tháng ngày du hóa (ngoài ba tháng
an cư), chư Tăng đi rong ruổi khắp nơi, thể lực cũng như nội lực huân tu cũng
vơi dần, năng lượng tâm linh trong con người cũng bắt đầu suy giảm, cho nên cần
phải có thời gian tịnh tu, ở yên một chỗ, tập trung thiền định, và có cơ hội
học tập lẫn nhau, ôn tầm lời đức Phật dạy, là tinh hoa trí tuệ, nhằm phục hồi
và phát huy nội lực sau mùa an cư. Vả lại, mùa mưa gió rất khó khăn và hạn chế
trong việc đi khất thực và hoằng hóa, nên đức Phật tạo điều kiện tốt cho chư
Tăng ở yên một chỗ, lo đời sống tâm linh, hoàn thiện về đạo đức và trí tuệ cho
tăng đoàn, đồng thời khuyến hóa những cư sĩ tại gia phát tâm cúng dường, hỗ trợ
cho chư Tăng tu học, là ruộng phước lớn lao cho hàng cư sĩ tại gia gieo trồng.
Căn cứ vào những điều vừa nêu, thì mùa An Cư Kiết Hạ của
chư Tăng Việt Nam
là tuân theo luật Phật chế, nhưng thời gian thì không hoàn toàn giống như đức
Phật an cư khi Ngài còn tại thế. Tùy vào điều kiện thời tiết từng quốc gia mà
mùa an cư có thể huyển chuyển, thay đổi cho thích nghi với việc tu hành của chư
Tăng nơi quốc gia đó hay trú xứ đó. Điều chắc chắn là hằng năm mỗi vị Tỳ kheo
ít nhất cũng cần có ba tháng Cấm Túc An Cư để ôn tầm kinh luật, nương tựa tăng
thân tu hành, biết nhìn lại mình, đồng thời cũng tích lũy được nội lực vững
vàng sau ba tháng nỗ lực cần tu Tam Vô Lậu Học (Giới - Định - Tuệ).
Để tranh thủ cho việc tạo phúc đức cho mình, đồng thời
thực hiện lời dạy của đức Thế Tôn, trong thời gian này, hàng Phật tử tại gia,
nhín ăn bớt mặc, kẻ công người của, tùy theo công sức của mình, hết lòng trợ
duyên cho chư tăng an tâm tu học. Đó là một việc làm thiết thực cho việc hoằng
dương chánh pháp; một mặt vừa thể hiện tinh thần trách nhiệm của Phật tử tại
gia đối với tăng bảo, một mặt là cơ hội tốt cho chúng sanh gieo trồng hạt giống
lành vào ruộng phước mầu mở, nền tảng của mọi công đức, là kết quả tốt đẹp cho
tự thân mỗi người phát tâm cúng dường được an lạc và hạnh phúc dài lâu.
Một số hình ảnh cúng Quá đường ngày 21 tháng 4 âm lịch:
Đạo hữu Hồ Văn Cơ tác bạch cúng dường |
thành tâm đảnh lễ cúng dường |
Niệm Phật kinh hành |